Lịch sử hoạt động Nadakaze (tàu khu trục Nhật)

Sau khi hoàn tất, Nadakaze được phân về Quân khu Hải quân Yokosuka để hình thành nên Hải đội Khu trục 3 trực thuộc Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Trong những năm 1938-1939, Nadakaze được phân công tuần tra tại khu vực bờ biển Bắc và Trung của Trung Quốc nhằm hỗ trợ cho những nỗ lực của quân Nhật trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật. Đến tháng 12 năm 1938, Hải đội Khu trục 3 được giải thể và Nadakaze được đưa về lực lượng dự bị.

Như là Tàu tuần tra số 2

Vào tháng 4 năm 1940, sau khi được cải biến rộng rãi, Nadakaze quay trở lại hoạt động thường trực như một tàu tuần tra, và được đặt lại tên là Tàu tuần tra số 2 (tiếng Nhật: 第二哨戒艇, Dai-ni Shokaitei). Các sự cải biến bao gồm giảm bớt số nồi hơi xuống còn hai khiến tốc độ tối đa của nó chỉ còn 37 km/h (20 knot); số lượng hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3 giảm từ bốn còn hai khẩu, và mọi ống phóng ngư lôi được tháo dỡ. Thay vào đó, nó được bổ sung bốn khẩu đội phòng không 25 mm Kiểu 96 ba nòng cùng 18 mìn sâu. Phía đuôi tàu có thể chở theo hai xuồng đổ bộ Toku Daihatsu, có khả năng cho đổ bộ 250 thủy quân lục chiến.

Sau khi Chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra, Tàu tuần tra số 2 được phân công nhiệm vụ tuần tra và hộ tống các đoàn tàu vận tải tại khu vực Philippines, Đông Ấn thuộc Hà Lanquần đảo Solomon. Đến tháng 1 năm 1943, nó được điều về chính quốc Nhật Bản hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Moji, Takao, Sài Gòn, ManilaSingapore. Vào tháng 12 năm 1943, nó trở thành tàu hỗ trợ cho Lực lượng Đổ bộ Hải quân Đế quốc Nhật Bản tại Balikpapan, Borneo.

Ngày 25 tháng 7 năm 1945, Tàu tuần tra số 2 trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Anh HMS Stubborn và bị chìm gần eo biển Lombok thuộc quần đảo Sunda Nhỏ tại Đông Ấn thuộc Hà Lan, ở tọa độ 07°06′N 115°42′Đ / 7,1°N 115,7°Đ / -7.100; 115.700Tọa độ: 07°06′N 115°42′Đ / 7,1°N 115,7°Đ / -7.100; 115.700. Những người còn sống sót dưới nước bị giết hại bằng súng máy.[4]

Tàu tuần tra số 2 được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 30 tháng 9 năm 1945.[3]